Thứ Bảy, 10 tháng 1, 2015

NGÀ VOI , TRẦM HƯƠNG NHỮNG MÓN HÀNG XUẤT KHẨU MANG THƯƠNG HIỆU VÀ LỢI NHUẬN CAO

Từ xưa đến nay, ngà voi được xem là một trong những vật phẩm quý giá; là biểu tượng của sức mạnh, cái đẹp và góp phần làm nên nét quyến rũ ngàn đời của văn hóa Tây Nguyên.

Ngà voi là 2 chiếc răng cửa của con voi đực phát triển mà thành. Voi cái không có ngà hoặc chỉ có một cặp ngà nhỏ xíu gọi là “ngà chuối tiêu”. Khi mọc ra khỏi miệng, ngà thoi dần và đầu mút nhọn, dài từ 1 - 1,5m, mỗi chiếc ngà nặng từ 15 - 20 kg. 

Ngà voi, trầm hương... là những món hàng xuất khẩu mang lại thương hiệu cho ngành ngoại thương Việt Nam thời cổ trung đại. Ngà voi cũng là vật triều cống được các quốc vương phong kiến ưa chuộng. Sách sử đã chép rằng vua Champa từng triều cống cho vua Trung Hoa 168 mẫu ngà voi. Ngày xưa, ngà voi nguyên cặp có trau chuốt dùng để trưng bày, biểu hiện sự giàu sang, quyền quý của các vua,  chúa. Ngày nay, ngà voi còn có nhiều công dụng trong cuộc sống, chúng được dùng vào nhiều mục đích khác nhau như làm nguyên liệu cho các mặt hàng mỹ nghệ, trang trí nội thất và đồ trang sức đắt tiền. Các triều đại phong kiến Việt Nam, voi được dùng trong hoạt động cung đình và quân sự. Tượng binh là một binh chủng quan trọng tạo nên sức mạnh của một vương triều. Cùng với cái vòi, cặp ngà là phương tiện tự vệ vô cùng lợi hại, giống như 2 lưỡi đao sử dụng khi đánh gần. Thời nhà Nguyễn, voi đực có ngà là “con cưng” của chốn hoàng cung. Khi ra khỏi hoàng thành, vua và hoàng tộc ngự giá bằng voi. Voi đực hai ngà thường đi đầu và đoàn ngự giá theo sau. Bảo Đại, vị vua cuối cùng của triều Nguyễn, đã từng sở hữu một đội voi đông đảo gồm 38 con đực có ngà dài ở Lạc Thiện (huyện Lắc, tỉnh Đắc Lắc). Chúng dùng để phục vụ vua và các vị cận thần cưỡi đi săn, ngoạn cảnh sông suối, núi rừng Tây Nguyên và thị uy với thổ dân. 

Trong tập quán trang sức của đồng bào Tây Nguyên, người ta không thể không lưu ý đến tục “cà răng căng tai”. Những người giàu có, khá giả thường đeo cặp bông tai làm bằng ngà voi kéo đôi tai dài đôi khi gần đến vai. Tập quán này được nhắc đến trong các câu ca dao của người Mơ Nông như: “Hợp với tai mới đeo ngà voi; hợp với cổ mới đeo xâu cườm; hợp với đầu mới quấn cườm hoa”.  Đàn ông, đàn bà dân tộc Mơ Nông , Mạ, X'tiêng, Bih... đều thích đeo bông tai ngà voi. Đặc biệt khi tiếp khách, đi thăm họ hàng, bạn bè, đi dự lễ hội..., họ thường đeo cặp ngà cho thêm phần sang trọng. Vì thế đôi bông tai ngà voi trị giá bằng một con trâu có sừng dài một “hăt” (một đơn vị đo chiều dài cổ truyền của người Mơ Nông, được tính từ cùi chõ đến ngón tay giữa khi được duỗi thẳng) hoặc bằng một chiếc ché cổ.
Chiếc ngà voi cũng đi vào đời sống tâm linh, nghệ thuật của dân tộc Mơ Nông, Lào, Ê Đê, Gia Rai, R'măm... Trong các lễ cúng quan trọng hằng năm như lễ cầu mưa, cầu sức khỏe trong buôn làng thì bên cạnh nhiều vật hiến tế khác, đồng bào Mơ Nông không quên vót nhiều hình ngà voi bằng gỗ để đặt lên giàn cúng, cầu mong một cuộc sống thịnh vượng, sung túc. Một số “gru” (thợ săn voi) hay các nghệ nhân dân gian dân tộc Tây Nguyên, bên cạnh chiếc tù và sừng trâu (nung) còn có chiếc tù và bằng ngà voi để làm tín hiệu lúc đi săn hoặc thổi trong các dịp sinh hoạt cộng đồng. Đặc biệt, mô típ hình ngà voi được thể hiện nhiều trong điệu khắc dân gian Tây Nguyên dành cho việc trang trí ở nhà mồ. Đến các khu nhà mồ ở buôn Đôn, từ ngôi mộ cổ của những người quyền quý đến thợ săn voi xưa đều có tượng gỗ ngà voi hoặc tượng chim công đậu trên cặp ngà voi, tạo nên một hình tượng nhà mồ sinh động và độc đáo của các dân tộc ở Đắc Lắc.  



Ngà voi là biểu tượng của cái đẹp, thể hiện sức mạnh, giàu có, nét quyến rũ ngàn đời của Tây Nguyên. Con voi đực và cặp ngà của nó cũng đã đi vào truyền thuyết, tạo ra cảm hứng sáng tạo trong nghệ thuật, văn hoá vật chất, tinh thần của người Tây Nguyên. Nhưng với giá trị thượng hạng, ngà voi là đối tượng được săn tìm mặc dầu đây là mặt hàng quốc cấm. Chúng ta cần ngăn chặn việc mua bán, tiêu thụ ngà voi để bảo vệ voi rừng và voi nhà.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét